Theo y học hiện đại, chắp thường do viêm mạn tính tuyến Meibomius. Khi bội nhiễm có thể có hiện tượng viêm sưng nóng đỏ đau, sau đó hóa mủ, áp- xe hóa, tự vỡ mủ hoặc rò mủ ra ngoài da và tự khỏi.
Hoặc có thể tiến triển viêm mạn tính dưới hình thức một nang hóa, sưng phồng lên và không có hiện tượng nóng, đỏ, đau. Đó một khối u lành tính, nằm ở xa bờ mi, nếu ở bên ngoài sụn mi thì đội lồi da phía ngoài mi mắt lên hoặc nếu ở trong thì đội kết mạc lên, có thể làm giảm thị lực do chắp đè vào nhãn cầu.
Lẹo: thường do viêm tuyến bã hoặc tuyến lệ phụ ở ngay chân lông mi. Ban đầu mi đỏ, rồi sưng lên thành một mụn nhọt và hơi đau. Sau 2-4 ngày cảm giác đau tăng dần, nhức buốt thì hóa mủ, sau đó cả mủ và ngòi vỡ thoát ra cùng với lông mi.
Điều trị đối với lẹo tương đối đơn giản, chườm nóng sớm khi mới bị bệnh lại là cách điều trị hữu hiệu nhất, kết hợp thuốc nhỏ hoặc mỡ kháng sinh tại chỗ. Khi đã có mủ, lẹo sẽ tự vỡ, nếu không phải làm thủ thuật chích tháo. Tuy nhiên bệnh rất dễ tái phát.
Theo y học cổ truyền, chắp, lẹo có tên gọi là “Thâu châm”, “Châm nhãn”, “Thổ âm”, “Thổ dương”, “Nhãn đơn”, “Mạch lạp thủng”…Nguyên nhân thường do phong và nhiệt tác động lẫn nhau làm tổn hại vùng mi mắt hoặc do ăn uống đồ cay nóng thái quá làm kinh Vị hóa nhiệt gây tổn hại mi mắt.
Vì chắp, lẹo là chứng bệnh hay gặp nhất là trước đây khi điều kiện môi trường không được tốt nên trong dân gian có rất nhiều cách chữa. Mỗi vùng miền có một cách khác nhau nhưng xét dưới góc độ khoa học thì đều có ý nghĩa ví dụ khi bị chắp, lẹo thì khi ngồi nấu cơm dùng cây đũa cả hơ nóng áp vào mi mắt nơi sưng đau và phải bí mật không cho ai biết.
Một cách điều trị độc đáo khác mà quý cụ lang bà mế thường hay dùng, đó là cách chích lể huyệt thâu châm hoặc huyệt phế du để điều trị chắp, lẹo.
Thích huyết huyệt thâu châm (Chích lể nặn m.áu huyệt thâu châm)
Người bệnh ngồi ngay lưng, vắt tay ngược với bên mắt bệnh (mắt trái bệnh thì vắt tay phải) qua vai bên kia, khuỷu tay sát vào cằm, các ngón tay ép sát vào nhau, đưa hết sức ra sau lưng, đầu ngón tay giữa chạm vào cột sống ở chỗ nào thì đó là huyệt để châm (khoảng đốt sống lưng 3-6). Thầy thuốc dùng tay vuốt dọc vai gáy lưng tới điểm để châm, đến khi da đỏ ửng, sát trùng rồi dùng kim to chích nông nặn m.áu.
Cách xác định huyệt thâu châm.
Một cách khác: Tương tự như trên, cũng vắt tay qua vai, ra sau lưng, đầu ngón tay giữa chạm cột sống đến đâu thì đ.ánh dấu điểm đó. Từ điểm này kẻ một đường thẳng ngang vuông góc với cột sống. Một đường thẳng thứ hai từ huyệt kiên tỉnh (giữa vai và gáy) kẻ dọc xuống song song với cột sống. Hai đường thẳng này giao nhau ở đâu thì đó là huyệt..
Thích huyết huyệt phế du
Từ đốt sống lưng thứ 3 đo ngang ra hai bên, mỗi bên 1,5 thốn. Đó là huyệt Phế du, sát trùng rồi dùng kim chích nặn m.áu huyệt bên bệnh
Một số huyệt tại chỗ sử dụng điều trị chắp lẹo.
Điều trị chắp lẹo bằng phương pháp châm cứu
Theo y học cổ truyền “kinh lạc sở quá chủ trị sở cập” (kinh lạc đi qua đâu thì trị bệnh ở đó) hay “tuần kinh thủ huyệt” (theo kinh mà lấy huyệt), kinh Bàng quang có đường đi liên hệ với mắt, huyệt Phế du lại thuộc kinh Bàng quang nên có thể điều trị được bệnh ở mắt.
Ngoài ra theo thuyết Lục kinh, Bàng quang kinh còn gọi là Thái dương kinh là kinh đầu tiên chống đỡ với ngoại tà; và theo thuyết Tạng phủ, Phế chủ bì phu ứng với bệnh da ở mi mắt, cũng là tạng có phản ứng với ngoại tà trước tiên. Một số trường hợp bệnh nhân bị chắp, lẹo có tăng cảm giác đau hoặc thay đổi màu da tại vùng huyệt này (được gọi là “A thị huyệt”).
Điều trị: Châm tả các huyệt tại chỗ: tình minh, toản trúc, thừa khấp, dương bạch, đồng tử liêu. Huyệt toàn thân: Phế du
Chữa trị mộng thịt ở mắt
Mộng thịt (hay còn gọi là màng m.áu mắt) là sự tăng sinh kết mạc nhãn cầu ở góc trong hoặc góc ngoài mắt từ rìa hướng vào trung tâm giác mạc.
Bệnh có thể tiến triển chậm trong nhiều năm hoặc tiến triển rất nhanh xâm lấn qua vùng rìa giác mạc và tiến vào vùng trung tâm giác mạc (đồng tử) làm giảm thị lực. Phần mộng thịt nhô lên có thể phá hủy màng phim nước mắt gây cảm giác kích thích, xốn cộm, chảy nước mắt sống và tổn thương biểu mô giác mạc.
Hiện có rất nhiều giả thuyết về nguyên nhân và cơ chế gây bệnh mộng thịt, trong đó có thuyết về vi chấn thương, về tia cực tím, về sự rối loạn tế bào mầm ở vùng rìa… song chưa có giả thuyết nào tỏ ra thuyết phục hoàn toàn. Những nghiên cứu sinh học phân tử gần đây cho rằng gene p53 có liên quan đến việc hình thành khối u cũng như hình thành mộng.
Dấu hiệu nhận biết
Bệnh mộng thịt được phân chia ra 3 giai đoạn:
Giai đoạn I: Mộng vượt quá rìa 1-2mm, đầu mộng gồ lên trên giác mạc, thân mộng không dày, chứa vài mạch m.áu chạy theo hướng vào giác mạc.
Giai đoạn II: Mộng đang ở hình thái hoạt động, đầu mộng xâm lấn vào giác mạc 2-4mm, có thể thấy đảo Fuchs, thân mộng dày nhiều mạch m.áu giãn.
Giai đoạn III: Là hình thái tiến triển của mộng, đầu mộng xâm lấn quá rìa 4mm vào giác mạc gây ảnh hưởng tới thị lực, thân mộng dày đỏ, mạch m.áu dày đỏ và giãn rộng.
Ở giai đoạn đầu, khi mộng thịt ở độ I thường ít gây ra các triệu chứng. Còn nếu ở mức độ nặng hơn (giai đoạn II, III) thì mộng thịt gây cộm đỏ khó chịu ở mắt, gây giảm thị lực và loạn thị. Các triệu chứng ở mắt như nóng rát ở trong mắt, sợ ánh sáng khi tiếp xúc với các tác nhân lạnh hay nóng, hoặc như có cảm giác có dị vật ở trong mắt, chảy nước mắt.
Các triệu chứng này tăng lên khi mộng thịt ở giai đoạn viêm nhiễm, đi kèm với các kích thích đau bởi các loét nhỏ ở trên giác mạc xung quanh đầu mộng. Mộng thịt có thể gây mờ đục giác mạc chu biên, làm thay đổi phim nước mắt và co kéo cũng làm hạn chế vận nhãn.
Mộng thịt có thể gây mờ đục giác mạc chu biên, làm thay đổi phim nước mắt và co kéo cũng làm hạn chế vận nhãn.
Chẩn đoán xác định
Mộng thịt nguyên phát là mộng chưa mổ lần nào, xuất hiện ở vùng khe mi. Đó là một khối tăng sinh hình tam giác và luôn phát triển đi về hướng giác mạc. Mộng thịt dính chặt vào giác mạc theo suốt chiều dài của nó và dính chặt nhất là ở đầu mộng. Điều này cũng dễ chẩn đoán phân biệt với mộng giả.
Mộng thịt tái phát, sau phẫu thuật một hoặc nhiều lần. Đó là sự tăng sinh mô sợi dưới kết mạc và dính chặt vào các mô liên kết. Nó khác biệt với quá trình thoái hóa trong mộng nguyên phát. Tuy nhiên, cần chẩn đoán phân biệt: Ung thư tế bào vẩy ở vùng rìa; U lympho, u dạng bì vùng rìa, u nhú, u biểu mô Bowman; Mộng mỡ, mộng giả; Viêm kết giác mạc với các bọng nước nhỏ, viêm thượng củng mạc;…
Chưa trị như nào?
Điều trị nội khoa không có hiệu quả về thực thể đối với mộng thịt, chỉ làm giảm triệu chứng trong những đợt viêm kích thích mà phẫu thuật là cần thiết. Phẫu thuật mộng thịt có nhiều phương pháp khác nhau nhưng chưa có phương pháp nào thực sự hoàn hảo như cắt mộng đơn thuần hoặc di chuyển hướng đi của mộng, cắt mộng có ghép kết mạc hoặc giác mạc lớp, cắt mộng có kết hợp áp thuốc chống chuyển hóa (như Thiothepa, 5FU, Mytomycin C). Trong đó, phương pháp cắt mộng có ghép mảnh kết mạc tự thân tỏ ra có hiệu quả, làm giảm tỷ lệ tái phát và được ưa chuộng hơn cả.
Lời khuyên của thầy thuốc
Mộng thịt không thể phòng tránh, tuy nhiên thói quen sinh hoạt tốt sẽ giúp hạn chế nguy cơ bị mộng thịt. Thường xuyên đeo kính râm khi ra ngoài trời. Nếu làm những công việc phải ở ngoài trời nhiều, hãy cho mắt nghỉ ngơi trong bóng râm sau một thời gian tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Nếu mắt khô, hãy dùng nước mắt nhân tạo để cấp thêm ẩm cho mắt. Tránh bụi, gió, khói và phấn hoa.